Chuyên nhận chỉnh sửa hình ảnh cá nhân và công ty | Website: tamphotoshop.us | Hotline: 0909 886 457
Hiển thị các bài đăng có nhãn PT - Photography - Nhiếp Ảnh. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn PT - Photography - Nhiếp Ảnh. Hiển thị tất cả bài đăng
Bài học nhiếp ảnh từ những chiếc máy film “lỗi mốt”
Nghĩ 2 lần, nháy 1 lần!
Cứ vài tháng, trên thị trường lại xuất hiện thêm những chiếc thẻ nhớ với dung lượng ngày càng lớn và giá ngày càng rẻ. Bởi vậy, khi chụp ảnh bằng máy kĩ thuật số, chúng ta thường chẳng bao giờ phải lo lắng về việc hết bộ nhớ. Cũng là một điều tốt. Nhưng hậu quả của sự tiến bộ về mặt công nghệ ấy, là bạn được rèn luyện một thói quen chụp (và lưu) rất nhiều những bức ảnh kém chất lượng. Nó khiến bạn trở nên lười biếng hơn khi quan sát và cân nhắc chụp, cho bạn nếp nghĩ thiếu chuyên nghiệp rằng nếu bạn chụp thật nhiều ảnh, thế nào cũng sẽ có những kiểu đẹp.
Khi chụp ảnh bằng máy cơ, ngược lại, bạn sẽ bị giới hạn bởi số kiểu của cuộn film (thường là 24 hoặc 36 kiểu). Thêm vào đó, bạn sẽ muốn tránh việc phải chụp nhiều hơn 1 shot cho 1 cảnh/đối tượng, bởi chi phí và sự tiêu tốn thời gian của quá tình rửa ảnh. Hệ quả tất yếu của những giới hạn đó, là bạn sẽ hình thành lại thói quen rất có ích, đó là cân nhắc kĩ hơn trước khi bấm máy.
“Hoài cổ” để định hình lại tư duy nhiếp ảnh!
Tất nhiên, bạn hoàn toàn có thể quyết định chụp vào cuộn với một chiếc máy SLR kiểu cũ, nhưng theo kinh nghiệm của nhiều người, một máy Compact (ống kính liền thân) 35mm phơi sáng tự động là lựa chọn tốt hơn cả. Loại máy này thường chỉ yêu cầu người chụp chọn một trong khoảng 3 vùng focus (dựa trên khoảng cách giữa đối tượng chụp với máy ảnh) và ISO.
Sử dụng một máy film tự động đơn giản sẽ bớt cho bạn thời gian quyết định trước mỗi shot chụp những thông số phiền hà như cân bằng trắng, khẩu độ, tốc độ cửa trập, độ phơi sáng… Được giải phóng khỏi những lựa chọn mang nhiều tính kĩ thuật như vậy, bạn có thể hoàn toàn tập trung vào 2 việc duy nhất: chọn một đề tài hay và chọn góc chụp truyền cảm nhất!
Học từ những sai lầm
Bằng việc chỉ chụp một kiểu với mỗi cảnh, khi rửa ảnh, một điều đương nhiên là bạn sẽ thu về vài tấm khá dở, bên cạnh những kiểu tốt. Khi ngồi sắp xếp một số lượng khổng lồ những kiểu ảnh chụp được bằng máy số, bạn sẽ dễ dàng quên đi việc phải suy nghĩ và phân tích những sai sót từ các phô hỏng. Chỉ khi ngồi xem lại ảnh chụp bằng máy film với số lượng hạn chế, một kiểu cho mỗi góc chụp, bạn mới buộc phải suy nghĩ nhiều hơn và lâu hơn về lý do những kiểu ảnh hỏng lại không được như bạn mong đợi, từ đó rút ra kinh nghiệm để cải thiện những bức ảnh sau này của mình.
Tiết kiệm bộ nhớ
Chụp ảnh với máy số, chẳng bao lâu trong máy của bạn sẽ có hàng nghìn những bức ảnh kém chất lượng, loại ảnh bạn sẽ chẳng bao giờ in ra vào treo trên tường nhà mình, nhưng cũng lại chẳng bao giờ biến mất khỏi ổ cứng đã quá tải của bạn. Lợi ích của việc sử dụng máy film, là bạn sẽ chụp ít hơn (nhưng hy vọng sẽ chất lượng hơn, tất nhiên), đồng nghĩa với việc bộ nhớ máy tính của bạn sẽ được rảnh rang hơn khá nhiều, để dành cho những công việc khác.
Tiết kiệm thời gian hậu kì
Như chúng ta đã đề cập ở trên, chụp ảnh bằng máy film sẽ giúp bạn “giữ được tỉ lệ chất lượng”, đảm bảo rằng sẽ có nhiều những bức ảnh đẹp ngay trên máy hơn. Và có lẽ, lợi ích quan trọng nhất của điều này, là việc bạn sẽ mất ít thời gian hơn cho quá trình làm hậu kì (post production) cho ảnh của mình.
Tận hưởng cảm giác khi những bức ảnh được rửa ra
Khi chụp bằng máy cơ, bạn thường sẽ khó mà nhớ được mình đã chụp gì trên một cuộn film. Không giống như với máy số, bạn có thể dễ dàng xem lại ngay các shots ảnh của mình trên màn hình review. Cái giá của nó, là bạn sẽ không bao giờ có được cảm giác đầy hào hứng và hồi hộp khi đem film tới phòng rửa ảnh, cảm giác lần đầu tiên được nhìn bức ảnh sau khi rửa ra. Bên cạnh đó, có những bức ảnh được rửa theo phương pháp truyền thống trong phòng mình cũng là một cảm giác thú vị, một điều mà các nhiếp ảnh chuyên dùng máy số ít khi có được!
Nguồn: Tổng hợp từ Internet
Nhiếp ảnh cơ bản: 4 nguyên tắc khi chụp phong cảnh
1. Nguyên tắc đường chéo
Sự dụng đường chéo trong ảnh luôn là một cách hiểu quả để hướng ánh mắt của người xem tới đúng điểm trọng tâm. Đường chéo này không nhất thiên phải là một đường thẳng thực sự, chỉ cần là một lối đi nằm chéo khung hình, một hang cây, một bờ rào, một dòng… hay bất cứ thứ gì có hình dáng tương tự mà bạn có thể tìm thấy ở không gian chụp của mình.
Những đường thẳng hội tụ cũng là một phương pháp hiệu quả. Anhso sẽ dành riêng một bài viết vể chủ đề này trong một ngày không xa.
Khi đặt trọng tâm của một bức ảnh phong cảnh vào các vị trí tạo nên các đỉnh của một hình học cơ bản, bạn sẽ tạo ra một cảm giác cân đối cho tác phẩm của mình. Có lẽ phương pháp phổ biết và đơn giản nhất để áp dụng nguyên tắc này, là tạp nên một hình tam giác trong khung hình của bạn từ ba trọng âm ảnh (như hình), trong đó điểm chính giữa (đỉnh tam giác) sẽ dành cho trọng tâm quan trọng nhất.
Nguyên tắc hình học cơ bản này trên thực tế cũng khá phổ biến nhưng tương đối khó áp dụng. Bạn cần khéo lẹo để cân đối các trọng tâm, tránh làm loãng bức ảnh mà vẫn hướng được ánh nhìn của người xem theo chủ ý của mình.
3. Nguyên tắc một phần ba
Nguyên tắc một phần ba có lẽ đã quá quen thuộc với các bạn, không chỉ trong chụp ảnh phong cảnh, mà còn hữu dụng với mọi thể loại nhiếp ảnh khác. Đây cũng là một trong những định luật đầu tiên mà những người mới làm quen với nhiếp ảnh được dạy. Đôi khi, bạn có thể sẽ cảm thấy nguyên tắc này hơi nhàm chán và cứng nhắc, nhưng không thể phủ nhận nó luôn có những hiệu quả nhất định, đặc biệt là với chụp ảnh phong cảnh.
Định luật này khá đơn giản. Hãy tưởng tượng bức ảnh của bạn được đặt lên một tấm lưới tạo bởi ba đường thằng nằm ngang cách đều và ba đường thẳng nằm dọc cách đều. Chúng ta có bốn giao điểm của các đường một phần ba, và đó chính là các vị trí vàng để đặt vào điểm nhấn cho bức ảnh của bạn, tạo hiểu quả thu hút thị giác tốt nhất với người xem.
4. Đóng khung hình
Việc thêm điểm nhấn cho vùng trọng tâm ảnh là điều được lưu tâm hàng đầu trong ảnh phong cảnh. Tuy thế, nó không phải là duy nhất. Một kĩ thuật quan trọng tương tự là “đóng khung” (framing) bức hình của bạn bằng những chi tiết nằm ở vùng rìa ảnh. Cách phổ biến nhất để framing ảnh là chụp qua những nhành cây nằm ngang khung hình (như hình vẽ). Bên cạnh đó tận dụng những chi tiết như một cây cầu, một hàng rào… cũng là một ý tưởng không tồi. Luật lệ được tạo ra dể phá vỡ
Nắm được các nguyên tắc nhiếp ảnh là quan trọng, nhưng biết được khi nào nên sử dụng chúng, và khi nào nên bất tuân lại là cả một tài năng mà nhiếp ảnh gia nào cũng muốn sở hữu. Bạn hãy kiên trì luyện tập những phương pháp trên, nhưng đồng thời cũng đừng để chúng giới hạn và giết chết sự sáng tạo mà bạn có.
Chúc các bạn có những bức hình phong cảnh thật ưng ý!
medizai.com
Độ nét sâu của trường ảnh (DOF)
Độ nét sâu của trường ảnh (Depth of field - DOF) là vùng ảnh rõ nét trước và sau điểm canh nét. Đây là một đặc điểm quan trọng trong nhiếp ảnh, và đăc biệt có ý nghĩa đối với bộ môn nhiếp ảnh nghệ thuật. Hình 19 cho ta khái niệm về điều này. Trong hai hình minh hoạ dưới đây, độ nét sâu của trường ảnh là vùng màu xám với điểm canh nét là nhân vật màu đó.
Độ nét sâu của trường ảnh (Depth of field - DOF) là vùng ảnh rõ nét trước và sau điểm canh nét. Đây là một đặc điểm quan trọng trong nhiếp ảnh, và đăc biệt có ý nghĩa đối với bộ môn nhiếp ảnh nghệ thuật. Hình 19 cho ta khái niệm về điều này. Trong hai hình minh hoạ dưới đây, độ nét sâu của trường ảnh là vùng màu xám với điểm canh nét là nhân vật màu đó.
Hình a, không rõ nét trước và sau điểm canh nét, bao gồm từ đến nhân vật màu xanh lá cây (gần máy ảnh nhất) đến màu tìm (xa máy ảnh nhất), cho ta độ nét sâu là lớn (dài). Ngoài khảng này thì hình ảnh điều bị mờ đi.
Còn hình b, đọ nét sâu chỉ “thu gọn” ở nơi nhận vật màu đó mà thôi, nhân vật trước và sau điều mờ cả, cho ta độ nét sâu nhỏ (ngắn).
Với khẩu độ càng lớn (chỉ số nhỏ), thì DOF càng nhỏ, ngược lại, khẩu độ càng nhỏ (chỉ số lớn) thì DOF càng lớn ra (hình 20).
Hình 21, hai bức ảnh này được chụp cùng một máy ảnh và sử dụng các thông số đều giống nhau chỉ trừ có khẩu độ là: f/16 là f/5.
Ở hình a, điểm canh nét là 3 bông trắng đỏ. Với khẩu độ nhỏ (f/16), mọi chi tiết trên bức ảnh điều có thể thấy rõ nét. Đặc biệt là phần cây xanh chung quanh đối tượng chụp, dù là ở xa ống kính vẫn được thấy rõ nét. Tất cả điều như nằm trên một mặt phẳng.
Trong khi đó, với hình b, được chụp ở khẩu độ f/5.6, điểm canh nét vẫn là 3 bông trắng đỏ. Phần cây xanh chung quanh điểm canh nét không còn sắt sảo như hình a, nhưng đã “nhoè” đi. Điều này khiến cho việc thưởng thức bức tranh tập trung hết vào cho điểm trung tâm (ba bông trắng đỏ), là điểm rất là sắc nét (đây là một cách để tạo ra sự nổi bật). Chẳng những vậy sự mờ ảo bao bọc xung quanh chủ thể tạo một cảm giác về chiều sâu ngoài không gian thực. Từ đó, ta thấy tính nghệ thuật giữa hai bức ảnh cũng vì thế mà rất khác nhau.
Về đặc điểm, góc chụp rộng (wide), cho ta một DOF rộng, mọi chi tiết điều hiển thị rõ nét. Còn goc chụp télé làm cho bức ảnh có DOF hẹp hơn (hình 22).
Với hình 23, ta thấy hình ảnh chụp ở tiêu cự 200 mm sẽ làm “xoá mờ” phong nền phía sau cánh hoa, làm nổi bật chi tiết trung tâm. Còn với ảnh chụp ở tiêu cự 75 mm, mọi chi tiết phía sau vẫn có thể thấy rõ.
Ngoài ra, khoảng cách từ người chụp đến đối tượng chụp cũng góp phần làm cho vùng ảnh rõ nét thay đổi. Càng tiến đến gần đối tượng chụp thì khoảng rõ càng ngắn lại.
Ta thường gặp trường hợp này trong khi chụp cận cảnh, hoặc là chụp phong cảnh. Với chụp cận cảnh, ta thường tiếp cận rất gần với đối tượng chụp và do đó DOF trong tình huống này rất hẹp (hình a). Đối với chụp phong cảnh, người ta thường lấy bao quát một khoảng không gian nên khoảng cách chụp thường là xa, do vậy, DOF đạt được là lớn như hình b dưới đây.
Qua hình 26, ta có bản tóm tắt về ảnh hưởng của ba yếu tố cơ bản đến độ nét sâu của trường ảnh: khẩu độ, tiêu cự và khoảng cách chụp. Các chỉ số có tính minh hoạ cho ta thấy các sự khác biệt của DOF trong những cách điều chỉnh khác nhau. Vệt màu cam là minh hoạ cho độ nét rõ của hình chụp. Vị trí của nhân vật cho ta một hình dung về vị trí tương đối của máy ảnh đến đối tượng chụp (có minh hoạ kèm theo cột số đo bên trái). Hàng dưới cùng cho thấy tác động thay đổi của máy ảnh: (1) Thay đổi khẩu độ, (2) thay đổi tiêu cự, (3) Thay đổi khoảng cách chụp.
Qua bảng trên, ta quan sát vệt màu cam trong từng bảng với chỉ số hàng dưới cùng và rút ra một số nhận đính sau: Ở nhóm 1, khi tiêu cự và khoảng cách chụp là cố định, thì với khẩu độ nhỏ (chỉ số lớn f/16) sẽ cho một DOF lớn (màu cam dài nhất trong 3 cấp khẩu độ). Ngược lại, điều chỉnh khẩu độ càng lớn (chỉ sô nhỏ, f/2) thì cho DOF càng hẹp. Điều này có nghĩa là chụp ở khẩu độ nhỏ (ví dụ chỉ sốbf/16 ) thì chắc ăn tám ảnh sẽ rõ nét (vì độ nét sâu rất lớn).
Ở nhóm 2 độ nét sâu sẽ rộng khi ta sử dụng góc chụp rộng (wide – tiêu cự 28 mm lầ ví dụ) – ta thấy trường hợp này vệt màu cam là dài nhất. Và độ nét sâu sẽ thu hẹp, ngắn lại nếu ta sử dụng tiêu cự của góc chụp télé (135 mm chẳng hạn). Do vậy, khi ta chụp hình có tính cách sinh hoạt cộng đồng chẳng hạn, ta thường “lấy cho đủ” mọi người, khi đó là ta đang sử dụng góc chụp wide, nên hình chụp thường đảm bảo có độ nét rõ.
Ở nhóm 3, độ nét sâu còn bị ảnh hưởng bởi khoảng cách canh nét từ camera đến đối tượng chụp. Nếu càng đứng gần đối tượng chụp thì độ nét sâu của trường ảnh càng giàm (canh nét ở khoảng cách 1.5 m cho vệt màu cam là ngắn nhất). Ngược lại nếu khoảng cách canh nét càng xa thì DOF đạt được là dài hơn (ở khoảng cách 4.5m thì vệt màu cam là dài nhất). Trường hợp này nhận thấy rõ nét nhất là khi cận cảnh, khoảng cách giữa máy ảnh và đối tượng rất nhỏ (hình 25a).
Thông thường, trong việc chụp hình ở gia đình, chúng ta đều muốn hình ảnh được rõ nét. Do vậy đối với các máy compact phổ thông, các chức năng (khẩu độ, tiêu cự, khoảng cách chụp) được thiết kế trong cùng mục tiêu nhất định (wide không quá nhỏ và télé không quá lớn), đồng thời, việc canh nét được điều chỉnh tự động hoặc chụp theo chế độ nên hình ảnh luôn có độ nét sâu là lớn, các chi tiết ảnh đều thể hiện rõ nét.
Khả năng tạo ảnh có DOF nhỏ (còn gọi là “xóa phông”) một cách chủ động thường được trang bị cho các máy loại bán chuyên nghiệp trở lên, với tiêu cự và khẩu độ có thể điều chỉnh
medizai.com
Ảnh chụp nhóm: mẹo và những bức ảnh đẹp
Raw vs JPEG
Những mẹo sau đây về RAW và JPEG được gửi bởi Richard và Rebecca từ Finn Production. Nó đến từ 1 cuộc thảo luận JPG hay RAW trên Flickr. Bạn hãy đọc nếu chưa rõ về 2 định dạng này.
Bạn đã chi ra ít nhất 600$ (hoặc có thể là 1000$) cho chiếc máy DSLR của mình. Bạn sẽ có thêm các nút điểu chỉnh tự động, và bắt đầu phải nghiên cứu sách và các tài liệu hướng dẫn trên mạng.
Chúng giúp bạn hiểu vể ISO, tốc độ của cửa chập (shutter speed), và làm thế nào với khẩu độ (apenture). Những chiếc máy ảnh chất lượng khá có thể có định dạng RAW (RAW format), dù nó có ý nghĩa/chất lượng gì, thì chúng ta vẫn dành tình yêu cho định dạng JPEG quen thuộc.
Như tôi luôn cảm thấy hài lòng khi chụp định dạng JPEG. Nhưng một ngày nhìn vào bảng điều chỉnh RAW và tôi tự hỏi "Tôi có nên sử dụng RAW để cho chất lượng tốt nhất? RAW chính xác là gì?"
Một câu hỏi hay. Đầu tiên chúng ta hãy cùng tìm hiểu 2 định dạng này.
Một file RAW là…
- Nó không là định dạng ảnh có thể thấy được (Nó cần một phần mềm đặc biệt để xem, dù phần mềm cũng rất dễ có)
- Nó có ít nhất 8-bits trên mỗi màu – red, green, blue (12 -bits tại vị trí X,Y), hầu hết máy DSLR có 12-bit/màu (36 bit cho mỗi vị trí)
- Nó không được nén (một chiếc máy chụp hình 8 megapixel sẽ cho một file RAW dung lượng 8M)
- Nó lấy dữ liệu hoàn toàn từ cảm biến của máy ảnh (camera's sensor)
- Nó có phạm vi xử lý đa dạng – dynamic range (tăng cường khả năng hiển thị ánh sáng, và bóng tối)
- Độ tương phản thấp (nhìn phẳng hơn, và trong hơn)
- Không sắc nét
- Không thích hợp cho việc in ấn trực tiếp từ máy ảnh hoặc những công việc cần tốc độ (Ví dụ như upload)
- Nó chỉ có thể Read only (ko chỉnh sửa) – (Tất cả thay đổi được lưu trong một XMP "sidecard" file hoặc JPEG file hoặc một định dạng ảnh khác).
- Đôi khi nó xuất hiện trên máy như một tập tin lạ (không giống như những tập hình ảnh thường thấy trên máy)
- Cần thời gian để xử lý trên máy tính
JPEG là…
- Một định dạng chuẩn có thể đọc được bởi tất cả các chương trình xử lý ảnh trên thị trường, hay mã nguồn mở có sẵn.
- Nó có chính xác 8bit cho mỗi màu (12 bit cho từng vị trí)
- Nó được nén (bằng cách giảm đi dữ liệu như trong file ZIP, hoặc bỏ đi những điều con người không thể nhận biết như nghe nhạc nén MP3)
- Kích thước tập tin nhỏ (một máy ảnh 8 megapixel sẽ cho một file JPEG từ 1 – 3 Mb)
- Phạm vi xử lý không đa dạng (lower in dynamic ranger)
- Tương phản cao
- Sắc nét hơn
- Có thể in ấn, chia sẻ trên web ngay tức thì.
- Không cần chỉnh sửa nhiều
- Có thể sử dụng để Manipulation – mặc dù bị mất dữ liệu trên ảnh, ngay cả khi bạn xoay chúng
- Nó được xử lý bằng máy ảnh của bạn.
Mặt khác đôi khi bộ nhớ có thể không thành vấn đề (các thẻ nhớ ngày càng rẻ hơn). Bạn hoàn toàn có thể "chơi sang" bằng cách chọn chụp cho kết quả RAW+JPEG để đáp ứng các tình huống. Nếu cần chia sẻ ngay thì bạn dùng JPEG, sau đó về nhà thì có thể lấy file RAW.
Vấn đề là bạn muốn chất lượng là trên hết (như các nhà chuyên nghiệp), và bạn muốn có được tất cả những gì mà cảm biến máy ảnh của bạn làm được, và không muốn mất mỗi bit có được cung cấp từ chiếc máy DLSR, điều mà chỉ có thể làm được với RAW.
Vẫn có những nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp không chụp ảnh RAW với 1 trong hai lý do:
1- Họ không biết làm thế nào
2- Họ không muốn bỏ thời gian xử lý những hình ảnh sau đó.
1. JPEG, Unprocessed 2. JPEG, Auto Adjustments 3. RAW, Unprocessed 4. RAW, Auto Adjustments
Chụp ở định dạng JPEG
Khi bạn chụp ở dạng JPEG, phềm mềm nội bộ của máy ảnh (được gọi là Firmware vì nó là một phần cứng của máy) sẽ đưa thông tin ra cảm biến sensor và tiến hành xử lý nó trước khi lưu lại. Một số màu bị mất cũng như độ phân giải thấp (và trên một số máy ảnh, nó còn có sạn "noise" trong JPG nhiều hơn RAW).Những hành động của Discrete Cosine Transforamtion (DCT – xem định nghĩa tại wiki) phân chia các hình ảnh thành các block (khối) – thường là 8×8 pixel và xác định những gì "an toàn" rồi bỏ nó đi bởi vì nó ít được nhận ra (các bước nén file JPG chất lượng thấp sử dụng cách nén này).
Và khi hình ảnh được đặt lại với nhau trên một hàng với 24 pixel chỉ còni 4-5 tone màu khác nhau, trong khi trước đó là 24 tông màu. Các dữ liệu màu này mãi mãi mất đi mà không thể lấy lại nếu không lưu ở dạng RAW.
Chụp JPG cũng tốt hơn trong trường hợp bạn cần chụp liên tục, bạn có thể burst (chụp liên tục) trong vài phần giây, vì quá trình lưu vào thẻ nhớ diễn ra nhanh hơn so với lưu file dung lượng lớn RAW.
Chụp ở RAW
Nếu bạn chụp ở RAW, máy tính chứ không phải máy ảnh sẽ xử lý dữ liệu và tạo ra một tập tin dạng ảnh. Việc chụp ở RAW tăng thêm quyền kiểm soát cho hình ảnh bạn đã chụp, nó thậm chí có thể sửa lỗi khi bạn đã chụp xong, ví dụ như vấn đề phơi sáng (exposure).Để tận dụng lợi thế của RAW bạn chắc chắn cần sử dụng phần mềm trên máy tính để xử lý các file và tạo ra JPEG (hoặc TIFFs).
Tôi phát hiện ra phần mềm Camera Raw đi kèm với Adobe Photoshop CS2 rất tốt để xử lý các tập tin RAW (thậm chí xử lý hàng loạt), cho dù mỗi người có sở thích của riêng mình (RawShooter có rất nhiều fan hâm mộ).
Khi bạn bạn tải một file RAW sử dụng Adobe Photoshop Cs2, phần mềm Camera Raw sẽ tự động bật lên. Với hầu hết các tập tin, những cài đặt tự động (automatic settings) đều tốt, nhưng bạn có khả năng thay đổi cân bằng trắng (white balance), phơi sáng (exposure), constrat (tương phản), saturation (độ bão hòa), và thậm chí các màu riêng biệt như Reg, Green, Blue cho ưng ý – Tất cả không bị giảm chất lượng,
Nếu cân bằng trắng (white balance) được không tốt, tôi thấy nó rất dễ để chỉnh khi sử dụng Camera Raw hơn là bạn chỉnh sửa trên JPG – Kết quả sửa với RAW thường tốt hơn. Các chi tiết phong phú, màu sắc và khả năng điều chỉnh, chi tiết (độ sắc nét), tất cả đều có thể tùy chỉnh tốt hơn với định dạng RAW.
Phần mềm nào tốt với RAW
Picasa (Free!)Adobe Photoshop CS
ACD See (for Digital Asset Management)
iView Media Pro (DAM, gần đây Microsoft đã mua lại)
BreezeBrowser Pro
Adobe Lightroom
Capture One
IrfanView
DxO Optics Pro
Cuối cùng tất cả tùy thuộc vào bạn. Hãy thử để chế độ RAW + JPG (nếu máy bạn có chức năng đó) và so sánh xem cái nào bạn thấy thú vị hơn. Nếu bạn hài lòng với những tấm ảnh định dạng JPEG thì bạn cũng không nhất thiết phải chuyển qua chụp RAW.
Theo digital-photography-school
Bí quyết làm việc cùng “mẫu” khi chụp ảnh chân dung.
Vẻ đẹp thực sự của một bức ảnh chân dung, không hoàn toàn chỉ nằm ở một khuôn mặt đẹp. Chúng ta cần nhiều hơn là vẻ ngoài, ở phía sau một bức hình nghệ thuật, đó chính là sắc thái và sự truyền cảm. Trong bài viết này, xin giới thiệu cùng các bạn vài chia sẻ nho nhỏ với người chụp chân dung, giản dị nhưng rất hiệu quả.
Những bí mật đầu tiên nằm ở chính bản thân bạn. Làm thế nào để bạn có thể tạo ra một không khí dễ chịu và thoải mái, từ đó giúp cho mẫu của bạn tự nhiên thể hiện ình trước ống kính hơn? Bí quyết thật ra rất đơn giản.
1. Lắng nghe và tôn trọng
Hầu hết mọi người đều không thường được lắng nghe. Sẽ tuyệt biết bao nếu bản thân bạn cảm thấy yêu thích việc giao tiếp, trò chuyện cùng những người cộng tác của mình, chia sẻ với họ những câu chuyện, kinh nghiệm… Cùng mỉm cười thật nhiều và luôn lắng nghe. Không ngần ngại thảo luận và trao đổi ý tưởng. Những thói quen đó từ bạn sẽ giúp những người cùng làm việc, đặc biệt là mẫu của bạn, cảm thấy tầm quan trọng của họ, cũng như cảm thấy được động viên, khích lệ rất nhiều. Đừng nên phán xét, chỉ trích. Việc bạn cần làm là dành sự chia sẻ, đồng cảm và thấu hiểu cho tất cả mọi người.
2. Thư giãn
Nếu bản thân bạn mang một tâm trạng lo lắng và nặng nề, hệ quả tất yếu là đối tượng chụp của bạn sẽ đáp lại điều ấy bằng việc cảm thấy thiếu tự tin, căng thẳng và bối rối. Càng sớm để bản thân mình được thư giãn và thả lỏng, bạn sẽ càng dễ dàng tạo ra không khí tự nhiên và tin tưởng trong ekip làm việc của mình.
3. Tin tưởng
Tin vào bản thân là một điều rất quan trọng. Hãy tin rằng bạn luôn làm được tốt nhất mình có thể. Những sai lầm sẽ luôn xảy ra, điều ấy không có nghĩa rằng bạn sẽ để nỗi sợ hãi rằng mình có thể phạm sai lầm kiểm soát và hạn chế mình. Bất kì ai cũng có thể rơi vào những tình huống không mong muốn, như pin hỏng, thẻ nhớ đầy vào lúc quan trọng, thiết bị gặp trục trặc… Và có lẽ tình huống tồi tệ nhất, là khi bạn cảm thấy cạn kiệt sức sáng tạo, mọi ý tưởng đều rơi vào bế tắc, và chẳng có phép màu nhiệm nào giải thoát cho bạn. Sự tồi tệ ấy, thật ra cũng chỉ là một điều bình thường mà thôi. Chẳng có ai có thể chụp mọi tấm hình đều xuất sắc cả. Việc của chúng ta chỉ là luôn giữ sự lạc quan và niềm tin, còn những kinh nghiệm mà sai lầm mang lại sẽ làm bạn trưởng thành!
4. Biết trân trọng
Nghe thì thật đơn giản, nhưng không phải ai cũng làm được điều này. Đừng thờ ơ! Hãy biết trân trọng những khoảnh khắc tuyệt vời mà bạn có khi làm việc với mọi người, những con người rất khác nhau nhưng lại cùng bạn chia sẻ nhiều điều trong công việc!
Còn bây giờ là những bí quyết khi chỉ dẫn mẫu.
5. Khâu chuẩn bị
Một “chiêu” thường rất hiệu rất hiệu quả với các mẫu nữ là đề nghị làm tóc và make-up cho họ. Phụ nữ thường đặc biệt chú ý tới ngoại hình, nên chỉ vài điều không ổn với vẻ bề ngoài có thể làm họ mất tinh thần làm việc ngay. Đôi khi điều này cũng phát huy tác dụng với các mẫu nam, bạn cũng đừng ngại thử đề nghị họ. Hãy tin tưởng vào chuyên viên làm tóc và trang điểm trong ekip của bạn, họ sẽ là những người chịu trách nhiệm hình ảnh cho đối tượng chụp. Bạn luôn cần sự có mặt của họ, dù làm việc trong studio hay làm việc ngoài trời, bất kì khi nào cần tút tát lại cho mẫu trong một buổi chụp hình dài. Trang phục cũng là một điều rất thiết yếu. Ngoài việc cần phải vừa vặn và phù hợp với mẫu, trang phục cần thể hiện được tính cách cũng như truyền tải được ý tưởng của bạn. Hãy khuyến khích mẫu có thêm những phụ kiện đi kèm để cá nhân hóa bộ trang phục, không áp đặt, nhưng thẳng thắn góp ý và định hướng trang phục cho họ. Tất cả những điều này sẽ giúp mẫu của bạn cảm thấy tự tin và thoải mái trước ống kính hơn nhiều.
6. Khâu chụp hình
Sự tự tin của mẫu vẫn là yếu tố quan trọng hơn cả. Hãy luôn động viên họ. Trò chuyện cùng họ trong suốt shot chụp, hỏi và chia sẻ những câu chuyện thường ngày, về sở thích, sách, thể thao, gia đình… để tạo một không khí làm việc thân thiện là điều cực kì cần thiết.
Khi cảm thấy không thoải mái, thường thì mọi người sẽ có những biểu hiện khá dễ nhận biết, như nắm chặt tay, cắn môi, vã mồ hôi… Hãy chú ý đến những chi tiết đó, và nhanh chóng động viên rằng họ đang làm việc rất ổn để giúp họ lấy lại tinh thần. Khi chụp hình, nhiều người thường hơi đổ người về phía trước và cúi đầu xuống. Giữ tư thế này lâu cũng dễ khiến người ta kém thoải mái, vì vậy hãy nhắc cộng sự của bạn đứng ở tư thế tự nhiên hơn, đừng quá gồng mình như vậy. Hãy luôn trò chuyện. Chú ý tới góc chụp và ánh sáng. Quan sát sự tác động của ánh sáng lên khuôn mặc, vóc dáng của từng mẫu khác nhau và dần điều chỉnh cho phù hợp.
Hãy nhớ, ngôn ngữ cơ thể và việc hiểu nó là sức mạnh để một hình ảnh có thể truyền đi một thông điệp (Ví dụ: đứng khoanh tay có thể làm mẫu của bạn cảm thấy thoái mái, nhưng khi chụp lại hình ảnh đó, người xem có thể hiểu rất khác) Bạn luôn cần suy nghĩ về điểu này khi chụp.
Những tips này có thể không cần thiết khi bạn chụp hình thời trang. Vì người mẫu thường đã quen với việc được chụp hình, vì vậy, vai trò của bạn sẽ rất khác. Bạn sẽ cần ít công sức hơn để tạo sự thoải mái cho người được chụp, truyền tải ý tưởng của mình. Người mẫu thường sẽ nhập tâm vào công việc ngay khi đứng trước ống kính. Vai trò của bạn sẽ còn hơn cả một người chỉ đạo nghệ thuật, đặt người mẫu vào khung cảnh, lên ý tưởng hiệu quả, tạo hứng khởi và để cho nhiếp ảnh làm việc!
Kết thúc bài viết, xin giới thiệu với các bạn một vài bức ảnh chân dung ấn tượng.
Nguồn: Tổng hợp từ Internet.
Đăng ký:
Bài đăng
(
Atom
)